Quy định về Người phụ thuộc giảm trừ gia cảnh năm 2024

Quy định về Người phụ thuộc giảm trừ gia cảnh
Rate this post

Năm 2024, quy định về người phụ thuộc giảm trừ gia cảnh áp dụng cho những ai? Người phụ thuộc được tính như thế nào? Điều kiện đăng ký người phụ thuộc là ai? Để giúp bạn hiểu rõ hơn, Thư Viện Kế Toán trích dẫn những điểm quan trọng của quy định tại Điều 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính.

I. Quy định về Người phụ thuộc giảm trừ gia cảnh năm 2024

  1. Các con của người nộp thuế gồm: con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài giá thú, con riêng của vợ, con riêng của chồng.
  • Con dưới 18 tuổi sẽ được xem là đủ điều kiện tính theo tháng.
  • Con từ 18 tuổi trở lên, nếu bị khuyết tật và không có khả năng lao động, sẽ được xem như không có khả năng sinh lợi.
  • Con đang theo học tại Việt Nam hoặc nước ngoài ở các cấp đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, bao gồm cả trường phổ thông cho những con từ 18 tuổi trở lên đang học bậc phổ thông (bao gồm thời gian chờ kết quả thi đại học từ tháng 6 đến tháng 9 của lớp 12), sẽ được xem như không có thu nhập hoặc thu nhập bình quân tháng không vượt quá 1.000.000 đồng từ tất cả các nguồn thu nhập trong năm.
  1. Vợ hoặc chồng của người nộp thuế đáp ứng điều kiện tại điểm đ, khoản 1, Điều 9 TT 111.
  2. Các bậc cha, mẹ: cha đẻ, mẹ đẻ; cha vợ, mẹ vợ (hoặc cha chồng, mẹ chồng); cha dượng, mẹ kế; cha nuôi, mẹ nuôi hợp pháp của người nộp thuế đáp ứng điều kiện tại điểm đ, khoản 1, Điều 9 TT 111.
  3. Các người khác không có sự liên hệ gia đình với người nộp thuế và không được hưởng sự hỗ trợ từ người nộp thuế theo điều kiện tại điểm đ, khoản 1, Điều 9 Thông tư 111 bao gồm:
  • Anh trai, chị gái, em trai của người nộp thuế.
  • Ông nội, bà nội; ông ngoại, bà ngoại; cô họ, dì họ, cậu họ, chú họ, bác họ của người nộp thuế.
  • Cháu họ của người nộp thuế bao gồm con của anh trai, chị gái, em trai.
  • Người khác phải tự trực tiếp nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật.

(Theo điểm d, khoản 1, điều 9 TT 111/2013/TT-BTC)

II. Điều kiện đăng ký người phụ thuộc giảm trừ gia cảnh:

Chú ý: Trường hợp tại tiết 4 nêu trên (Cá nhân không nơi nương tựa) thì điều kiện đầu tiên là phải là “Cá nhân không nơi nương tựa”, sau đó mới xét đến điều kiện dưới đây: “trong hay ngoài độ tuổi lao động”.

  1. Đối với những người nằm trong danh sách người phụ thuộc được nêu tại tiết 2, 3, 4, cần phải đáp ứng các điều kiện sau:

a) Để được xem là người trong độ tuổi lao động, phải đáp ứng cùng lúc các điều kiện sau đây:

1.1) Gặp khuyết tật hoặc không có khả năng lao động (thuộc nhóm người mà pháp luật điều chỉnh, bao gồm người khuyết tật và những người mắc các bệnh như AIDS, ung thư, suy thận mãn, v.v. mà không thể tham gia lđ).

1.2) Không có TN hoặc TN tính bình quân hàng tháng trong năm từ tất cả các nguồn TN không vượt quá 1.000.000 đồng.

b. Người ngoài độ tuổi lao động phải không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm tính tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.

  1. Năm 2021, độ tuổi lao động là:
  • Từ 15 – 60 tuổi 03 tháng đối với lao động nam.
  • Đối với lao động nữ, từ 15 – 55 tuổi sẽ có quy định đặc biệt. Tuổi nghỉ hưu của người lao động sẽ được điều chỉnh theo một lộ trình cụ thể. Tính từ năm 2021, trong điều kiện lao động bình thường, tuổi nghỉ hưu của người lao động nam là 60 tuổi 03 tháng và tuổi nghỉ hưu của người lao động nữ là 55 tuổi 04 tháng. Sau đó, mỗi năm sẽ tăng thêm 03 tháng đối với lao động nam và 04 tháng đối với lao động nữ. Điều này được quy định tại Điểm đ, Khoản 1, Điều 9 của Thông tư 111/2013/TT-BTC và Điều 169 của Bộ luật lao động số 45/2019/QH14.

Luật quy định về người phụ thuộc không có nơi nương tựa:

Theo Khoản 5 Điều 4 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP quy định: “Người sống cô đơn không nơi nương tựa” là người sống độc thân, không có hoặc không còn thân nhân.

Căn cứ vào Điều 6 Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09/03/2000 của Chính phủ, người thuộc diện cứu trợ xã hội thường xuyên tại xã, phường quản lý gồm:

  1. Trẻ em mồ côi bao gồm trẻ dưới 16 tuổi mất cả cha lẫn mẹ hoặc bị bỏ rơi, không có nguồn nuôi dưỡng và không có người thân phù hợp để nương tựa. Trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ, nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha đã mất tích theo quy định tại Điều 88 của Bộ Luật Dân sự hoặc không có khả năng, năng lực để chăm sóc theo quy định của pháp luật.
  2. Người già cô đơn không có nơi nương tựa bao gồm những người từ 60 tuổi trở lên sống một mình. Người già có vợ hoặc chồng nhưng đã già yếu, không có con, cháu hoặc người thân phù hợp để nương tựa, và không có nguồn thu nhập. Trong trường hợp là phụ nữ già không có nơi nương tựa, không có nguồn thu nhập và đủ 55 tuổi trở lên, nếu đang nhận trợ cấp cứu trợ xã hội, sẽ tiếp tục được hưởng.
  3. Người tàn tật nặng không có nguồn TN và không có nơi nương tựa. Người tàn tật nặng có người thân phù hợp, nhưng họ đã già yếu hoặc gia đình mắc kẹt trong đói nghèo, không đủ khả năng kinh tế để chăm sóc.
  4. Người tâm thần mãn tính là những người bị các loại bệnh tâm thần như tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần và đã được điều trị bởi cơ sở y tế chuyên khoa tâm thần nhiều lần nhưng không có sự cải thiện và đã được chẩn đoán là bệnh mãn tính. Họ sống một mình mà không có nơi nương tựa hoặc gia đình của họ thuộc diện nghèo đói.

Căn cứ Luật Bảo vệ, chăm sóc người khuyết tật năm 2010, người tâm thần mãn tính là người mắc bệnh tâm thần và có kết quả khám chữa bệnh bị coi là người khuyết tật, được hưởng quyền lợi theo quy định của pháp luật về người khuyết tật.

Theo Điều 22 Luật Bảo vệ, chăm sóc người khuyết tật năm 2010, người khuyết tật có thể được hỗ trợ về: giáo dục, đào tạo, tạo việc làm, đào tạo kỹ năng, hỗ trợ vốn kinh doanh, cung cấp thông tin, tư vấn, hỗ trợ thiết bị hỗ trợ sinh hoạt và công việc, chi phí đi lại, hỗ trợ kỹ thuật và nghệ thuật, đào tạo người trợ giúp và các hình thức hỗ trợ khác.

Ngoài ra, người tâm thần mãn tính cũng có thể được hưởng quyền lợi trong lĩnh vực y tế, như: miễn phí khám bệnh, điều trị tại các cơ sở y tế công lập, cung cấp thuốc miễn phí hoặc giảm giá, và được ưu tiên khi xếp lịch khám chữa bệnh.

Theo hướng dẫn của Cục Thuế TP.HCM theo Công văn số 6087/CT-TTHT ngày 29/6/2016, nếu người phụ thuộc là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruột, bác ruột và đang có con hoặc vợ/chồng trong độ tuổi lao động, có sức khỏe bình thường, có khả năng lao động (tức là còn nơi nương tựa) hoặc người phụ thuộc có thu nhập lớn hơn 1.000.000 đồng/tháng thì người lao động không được giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc.

Công văn số 901/TCT-TNCN ngày 15/3/2017 của Tổng cục Thuế chỉ rõ rằng, nếu ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruột, bác ruột mà cá nhân người nộp thuế đang phải trực tiếp nuôi dưỡng và không còn nơi nương tựa nào khác thì được xem là người phụ thuộc. Ngược lại, nếu vẫn còn nơi nương tựa thì không được xem là người phụ thuộc và không được tính giảm trừ gia cảnh.

Công văn số 739/TCT-DNNCN ngày 6/3/2019 của Tổng cục Thuế nêu rõ rằng, nếu bà nội Nguyễn Thị Huê là bà Bùi Thị Dân do bà Huê đang trực tiếp nuôi dưỡng và đủ điều kiện người không nơi nương tựa, ngoài độ tuổi lao động không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn TN không vượt quá 1.000.000 đồng thì được PL xác định là người phụ thuộc.’

Hỏi: Tôi đã đăng ký kê khai người phụ thuộc là bà nội và cô ruột của tôi, cả hai đều trên 60 tuổi và không có chồng con. Tuy nhiên, cơ quan từ chối đăng ký và cho rằng bố mẹ tôi vẫn còn sống và có trách nhiệm nuôi dưỡng bà và cô tôi, do đó tôi không được đăng ký nuôi dưỡng hai người để thực hiện giảm trừ gia cảnh. Vậy, liệu trường hợp của tôi có được đăng ký kê khai giảm trừ gia cảnh hay không?

Trả lời: Theo Cục Thuế TP Hà Nội, trường hợp người nộp thuế đăng ký giảm trừ gia cảnh cho các cá nhân không nơi nương tựa như bà nội và cô ruột mà người nộp thuế đang phải trực tiếp nuôi dưỡng theo hướng dẫn tại tiết d.4 điểm d khoản 1 Điều 9, nhưng không đáp ứng điều kiện là cá nhân không nơi nương tựa theo quy định của PL thì không được tính giảm trừ gia cảnh khi tính thuế TNCN.

Do đó, trong trường hợp bố mẹ của bạn vẫn còn sống và có trách nhiệm nuôi dưỡng bà nội và cô ruột của bạn, bạn không được đăng ký nuôi dưỡng hai người để thực hiện giảm trừ gia cảnh.

Lưu ý:

  1. Người nộp thuế có thể áp dụng giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc nếu đã đăng ký và có mã số thuế được cấp cho người phụ thuộc đó.
  2. Cá nhân đăng ký người phụ thuộc cần chuẩn bị một bộ hồ sơ chứng minh để nộp cho doanh nghiệp (Doanh nghiệp sẽ lưu trữ và giải trình trong trường hợp cơ quan thuế kiểm tra).

III. Nguyên tắc tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc:

  • Người nộp thuế sẽ được tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc nếu đã đăng ký thuế và có mã số thuế.
  • Doanh nghiệp phải đăng ký thuế thay cho người phụ thuộc của người nộp thuế trước thời hạn 10 ngày làm việc tính từ ngày đăng ký giảm trừ gia cảnh theo quy định của PL trong TH người phụ thuộc chưa có MST.

(Theo qđ tại Điều 33 của Luật quản lý thuế 38/2019/QH14)

  • Cơ quan thuế sẽ cấp mã số thuế cho người phụ thuộc và tạm tính giảm trừ gia cảnh trong năm kể từ khi đăng ký.
  • Trong TH người nộp thuế chưa tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc trong năm tính thuế, sẽ được tính giảm trừ cho người phụ thuộc kể từ tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng khi người nộp thuế thực hiện quyết toán thuế và có đk giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc.
  • Đối với người phụ thuộc khác theo hd tại tiết d.4, điểm d, khoản 1, Điều này, thời hạn đăng ký giảm trừ gia cảnh không quá ngày 31 tháng 12 của năm tính thuế. Nếu quá thời hạn này thì không được tính giảm trừ gia cảnh cho năm tính thuế đó.

Các đối tượng được coi là người phụ thuộc theo hướng dẫn tại tiết d.4, điểm d, khoản 1, Điều 9 của Thông tư 111 bao gồm:

  • Anh ruột, chị ruột, em ruột của người nộp thuế.
  • Ông nội, bà nội hoặc ông ngoại, bà ngoại; cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruột, bác ruột của người nộp thuế.
  • Cháu ruột của người nộp thuế tính cả con của anh ruột, chị ruột, em ruột.
  • Các người phải trực tiếp nuôi dưỡng khác theo quy định của pháp luật.

Mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ 1 lần/một năm tính thuế cho 1 người nộp thuế. Nếu có nhiều người nộp thuế cùng chung một người phụ thuộc, thì các người nộp thuế phải tự thỏa thuận để chỉ đăng ký giảm trừ gia cảnh cho một người nộp thuế.

Ví dụ: Trong trường hợp 2 vợ chồng có 1 người con được đăng ký là người phụ thuộc, chỉ có thể đăng ký giảm trừ gia cảnh cho Vợ hoặc Chồng trong năm tính thuế đó, và chỉ được điều chỉnh lại vào cuối năm. Không được phép đăng ký giảm trừ gia cảnh cho cả Vợ và Chồng trong cùng năm.

Về việc đăng ký và điều chỉnh người phụ thuộc, vui lòng xem chi tiết tại phần “Cách đăng ký người phụ thuộc” bên dưới.

Một người nộp thuế có thể đăng ký nhiều người phụ thuộc, bao gồm bố, mẹ, con… và không có giới hạn số lượng, miễn là đáp ứng các điều kiện quy định.

>> Xem thêm: Quy định mức giảm trừ gia cảnh mới nhất năm 2024

Bài viết liên quan
Bình luận của bạn